Đặc sắc, độc đáo – Gốm Chu Đậu

Đặc sắc, độc đáo – Gốm Chu Đậu

Cuối thế kỷ 14, là thời kỳ phát triển cao nhất của đồ gốm Việt Nam, với nhiều loại men và hoa văn độc đáo, loại đồ gốm mà ngày nay chúng ta được biết dưới tên “Ðồ gốm Chu Ðậu”.

Men gốm

   Men gốm Chu Ðậu rất phong phú: như men ngọc (celadon), men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn màu xanh (men trắng chàm) và men trắng trong với hoa văn ba màu vàng, đỏ nâu và xanh lục (men tam thái). Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật giáo, hoa văn Chu Ðậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Ðậu được vẽ bằng men màu.

   Các bát đĩa đời Lý thường còn dấu con kê rõ ràng; đồ gốm Chu Ðậu khéo hơn, dấu con kê không còn nữa. Ðáy các chén đĩa thời Lý thường để trơ đất mộc, đáy của đồ gốm Chu Ðậu thường được quét một lớp son nâu, màu đậm, thường khi vẫn còn nguyên dấu bút. Lớp son nâu này không phải là men, mà chỉ là một lớp son pha màu nâu rất mỏng để bảo vệ đáy chén đĩa. Ðây cũng là những đặc điểm phân biệt đồ gốm ta và đồ gốm Tàu. Gốm Tàu không bao giờ để trơ đất mộc, hay quét son nâu, cũng không có dấu con kê. Con kê là một kỹ thuật hoàn toàn Việt Nam. Kỹ thuật này dù làm cho món đồ kém đi chút phẩm chất, nhưng lại là một phát kiến riêng của người thợ Việt Nam, nhằm tránh cho chén đĩa không bị dính vào nhau khi nung mà lại tiết kiệm được diện tích lò.

   Men trắng chàm và men tam thái nổi danh và được ưa chuộng hơn cả. Men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu xanh biếc) chiếm số lượng cao nhất. Các món đồ vớt được ở ngoài khơi Ðà Nẵng – Hội An cũng đều là men trắng chàm. Do đó, khi nói về đồ gốm Chu Ðậu, người ta chỉ thường biết về loại này mà ít để ý đến các loại men khác. Loại đồ gốm Chu Ðậu hạng nhất này nhiều món đẹp tuyệt vời, bứt xa đồ nhà Minh, và đẹp không kém gì đồ gốm men lam của nhà Thanh bên Tàu.

   Tuyệt vời nhất là hoa văn trên men trắng chàm và men tam thái, hình ảnh thuần túy Việt Nam. Họ vẽ tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, tôm, cá bống, cóc, rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Cũng như các bình ấm Việt Nam đời trước, thảng hoặc lắm ta mới thấy một vài bình, ấm thời Chu Ðậu có quai cầm, còn ngoài ra, nơi quai cầm chỉ là một vật trang trí như con rùa, con cá, bông sen… như đồ gốm Việt Nam các thời trước.

Loại hình, kiểu dáng và hoa văn trang trí trên gốm Chu Đậu

   Hình dạng đồ gốm Chu Ðậu thật phong phú: Bát chân cao, bát chân thấp, tô, đĩa, chén, tước, bình, ấm, âu, chậu, lu, hũ, bát hương, bát trầm, chân đèn, hộp, lọ, bình vôi, nghiên mực, có cả nghiên mực hình con trâu, con cua, rồi lại còn đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa…, từ các món đồ dùng trong nhà người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng…

   Nhưng xem đồ gốm Chu Ðậu mà bỏ qua bình tỳ bà thì thật uổng. Ngoài các cuộc khai quật ở các lò gốm cũ ở làng Chu Ðậu, loại bình này thường được tìm thấy từ các tàu buôn đắm ngoài khơi Hội An – Ðà Nẵng. Như tên gọi, bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to, thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tàu lá chuối hay hình cây lúa; tầng thứ hai khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng; tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển, bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá; tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau.

   Tước (hay bôi) là ly uống rượu chân cao. Ngoài những tước men ngọc, màu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực rượu trong lòng tước.

   Ðĩa Chu Ðậu rất đẹp, men trắng trong với hoa văn màu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn, đường kính đến khoảng 50cm, nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa rộng 5cm, vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn… đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết, hoa văn màu xanh chàm, đĩa lớn thường là men ba màu (Tam Thái). Cùng với bình tỳ bà và bát Chu Ðậu, đĩa Chu Ðậu là những món đẹp và nổi tiếng, được rất nhiều viện bảo tàng và nhà sưu tập quốc tế ưa chuộng.

   Bát Chu Ðậu cũng thường là men trắng chàm, đường kính ở miệng bát từ 14 đến 16cm, cao từ 8 đến 10cm, nhiều loại hoa văn khác nhau:khi thì chim sẻ đậu trên cành mai, khi thì đóa cúc, đóa mẫu đơn, khi thì lại là khóm phong lan… trong lòng bát. Vành trong của bát cũng vẽ những vòng tròn hoa lá. Hoa văn ở mặt ngoài bát thường gồm hai tầng, phía trên là một vành hoa mai, hoa cúc cao khoảng hơn 3cm, tầng dưới, khoảng 4cm, là những ô có hình các vòng xoắn ốc tiêu biểu của gốm Chu Ðậu. Trên vành ngoài miệng bát cũng có những vòng đồng tâm.

   Ngoài ra còn có rất nhiều hồ rượu hoa văn trắng chàm và hoa văn tam thái. Lại có các hồ rượu hình chim vẹt hình con gà, các chén uống trà có quai cầm là chim vẹt. Lư hương và chân đèn thời Chu Ðậu lớn và đẹp vô cùng. Có những chân đèn cao 70, 80cm, lư hương cao 35, 40cm. Một số lớn có ký tên người làm và đề rõ năm tháng, như vợ chồng Ðặng Huyền Thông – Nguyễn Thị Ðỉnh, vợ chồng Ðỗ Xuân Vi – Lê Thị Ngọc, vợ chồng Bùi Duệ – Lê Thị Cận, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không…

Facebook

Bình luận

*